Tổ chức Lễ truy điệu các liệt sĩ thuộc Sư đoàn 3 (Quân khu 1) hy sinh tại huyện Hoài Ân, Bình Định
![]() |
Các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước dự lễ truy điệu.
|
Dự Lễ truy điệu và an táng các anh hùng liệt sĩ có các đồng chí: Nguyễn Trọng Nghĩa, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương; Võ Thị Ánh Xuân, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch nước; Phạm Hoài Nam, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng cùng lãnh đạo Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, lãnh đạo Tỉnh ủy, UBND, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Bình Định, hàng trăm cựu chiến binh Sư đoàn 3-Sư đoàn Sao Vàng (nay thuộc Quân khu 1) và đông đảo người dân huyện Hoài Ân.
Lễ truy điệu diễn ra trang nghiêm trong không khí hào hùng cùng cả nước hướng về ngày kỷ niệm 47 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước 30/4/1975 - 30/4/2022; cũng là ngày kỷ niệm 50 năm giải phóng huyện Hoài Ân.
Hoài Ân là huyện trung du, miền núi của tỉnh Bình Định, vùng căn cứ địa cách mạng, là chiến trường trọng điểm của Quân khu 5 trong kháng chiến chống Mỹ, là nơi tập trung đánh phá của kẻ thù, vì đây là vùng trọng yếu tiếp giáp giữa Quân khu 1 và Quân khu 2 ngụy. Con đường số 1 qua Tam quan, vượt đèo Bình Đê ra Quảng Ngãi là đoạn đường dễ bị cắt đứt nhất ở miền Trung. Bình Định còn là nơi đứng chân, hậu cứ của Sư đoàn 3 - Sư đoàn Sao Vàng anh hùng.
![]() |
Trung tướng Nguyễn Như Hoạt, Anh hùng LLVTND, nguyên giám đốc Học viện Quốc phòng, nguyên Sư đoàn trưởng Sư đoàn 3, truy điệu các đồng đội cũ đã hy sinh trong trận đánh tối 26/12/1966 tại Đồi Xuân Sơn, huyện Hoài Ân (Bình Định). |
Xác định được địa bàn chiến lược quan trọng của Bình Định nên cuối năm 1965, địch đã tập trung hơn 20.000 quân Mỹ và chư hầu với 500 máy bay phản lực các loại hàng chục tiểu đoàn thiết giáp, pháo binh nhằm thực hiện mục đích "tìm diệt" và "bình định”.
Sau thất bại cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất (1966-1967), quân Mỹ chủ trương xây dựng các cứ điểm để đứng chân dài ngày như Gò Loi, Chóp Chài, trận địa pháo Xuân Sơn... để đẩy mạnh "tìm diệt" và làm chỗ dựa cho quân ngụy và quân chư hầu tiến hành "bình định".
Đồi Xuân Sơn cách thị trấn Bồng Sơn 22km về phía Tây Nam, cao 198 mét, phía đông bắc giáp núi Gò Công, 3 hướng còn lại giáp sông Nước Lương và sông Kim Sơn. Trên đỉnh đồi quân Mỹ bố trí một trận địa pháo 12 khẩu 105 mm và 155 mm, lực lượng có 2 đại đội pháo binh và 2 đại đội bộ binh, quân số khoảng 650 tên Mỹ (thuộc Sư đoàn Kỵ binh bay số 1) và được sự yểm trợ trực tiếp của 2 căn cứ pháo binh Tân Thạnh và Kim Sơn, vì vậy các chỉ huy Mỹ cho rằng Xuân Sơn sẽ "miễn dịch" với bất kỳ cuộc tấn công nào của đối phương.
Đêm 26, rạng sáng 27/12/1966, Trung đoàn 22 thuộc Sư đoàn 3 cùng với quân, dân huyện Hoài Ân tổ chức tập kích cứ điểm đồi Xuân Sơn. Đây là trận đánh có ý nghĩa quan trọng nhằm kéo quân Mỹ ra để tiêu diệt, hỗ trợ cho phong trào đấu tranh của quần chúng nổi dậy, chống địch càn quét gom dân, lập "ấp chiến lược, phá âm mưu "bình định" của Mỹ, Ngụy.
Đúng 00 giờ ngày 26/12/1966, ta nổ súng tấn công, từng chùm đạn cối 82mm, ĐKZ 75 trùm lửa lên đầu giặc, các chiến sỹ xung kích của Trung đoàn 22 chia làm 6 mũi ào lên như 6 mũi dao nhọn cắm vào đội hình của địch, sau chừng 5 phút bị choáng váng trước đòn tiến công bất ngờ của ta, các hỏa điểm địch đã ngóc dậy và bắn như vãi đạn vào đội hình xung kích.
Cũng ngay trong đêm đó, chúng cấp tốc điều Lữ đoàn 3, Sư đoàn 25 "Tia chớp nhiệt đới" Mỹ phối hợp với Sư đoàn không vận số 1 đi giải tỏa. Suốt trong 5 ngày đêm đạn pháo, rốc két và bom đánh nát các khu rừng còn sót lại, những trận đánh vô cùng khốc liệt lại diễn ra.
Trung đoàn 22 đã diệt và làm bị thương nhiều lính Mỹ, phá hủy 11 khẩu pháo 105mm và 155mm, bắn rơi 5 máy bay trực thăng, thu 34 súng các loại...
Tuy nhiên, dưới làn mưa bom, bão đạn của kẻ thù, nhiều chiến sĩ đã anh dũng hi sinh. Sau khi kết thúc trận đánh, địch đã dùng phương tiện xe cơ giới kéo thi thể của các liệt sĩ vùi lấp vào hố chôn tập thể gần đồn đóng quân của chúng.
Thông qua thông tin do một cựu chiến binh ở phường Hoài Thanh Tây (thị xã Hoài Nhơn) cung cấp và từ thông tin của một cựu binh Mỹ, từ ngày 10 - 11/3/2022, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Bình Định đã huy động lực lượng, phương tiện cơ giới tổ chức khảo sát, thăm dò tại vị trí khoanh vùng ở thực địa.
Sau 2 ngày khảo sát, đến 16 giờ 30 phút ngày 11/3/2022, Đội công tác quy tập đã phát hiện hố chôn tập thể các liệt sĩ. Qua các nhân chứng, qua các mẫu xương và nhận dạng rất nhiều di vật được tìm thấy đã xác định đây chính là hài cốt của các liệt sĩ hy sinh trong trận tập kích cứ điểm Xuân Sơn đêm 26 /12/1966.
Do nhiều yếu tố lịch sử chiến tranh, đến nay bước đầu mới chỉ xác định được danh tính 60 liệt sĩ hy sinh vào cuối tháng 12 năm 1966 tại đồi Xuân Sơn, xã Ân Hữu, trong đó 51 đồng chí là cán bộ, chiến sĩ của Trung đoàn 22, Sư đoàn 3 và quân, dân, chính đảng địa phương.
Tại Lễ truy điệu và an táng, Chủ tịch UBND tỉnh Bình Định Nguyễn Phi Long nhấn mạnh: “Đã 56 năm trôi qua, hình hài xương thịt các đồng chí đã trở thành đất đá, cỏ cây, thành những mạch nước chảy trong lòng đất mẹ, hòa vào truyền thống cội nguồn của dân tộc. Sự hy sinh của các đồng chí đã để lại độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc của nhân dân, đã để lại cho mảnh đất Hoài Ân anh dũng, kiên cường, nơi đã sản sinh ra Sư đoàn 3 anh hùng hôm nay những vườn cây trái tốt tươi, cánh đồng trĩu hạt, cho tuổi thơ xinh màu áo học trò; cho ngói đỏ mái trường và tình thương của xã hội; cho tiếng chim ca trong nắng vàng sớm mai; cho khúc nhạc công nghiệp trải dài và phát triển".
Chủ tịch UBND tỉnh Bình Định Nguyễn Phi Long bày tỏ: “Dẫu cho thời gian có trải qua 56 năm năm dài đăng đẵng nhưng việc tìm được hài cốt các đồng chí là niềm vui mừng khôn xiết, vì đó là tâm nguyện hằng ấp ủ của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Bình Định, phải làm tròn trách nhiệm của mình đối với những người đã hy sinh xương máu vì độc lập dân tộc và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Kể từ hôm nay, các đồng chí sẽ được trở về với đồng đội của mình ở Nghĩa trang liệt sĩ thị trấn Tăng Bạt Hổ trong tình cảm thương yêu vô hạn của đồng chí, đồng bào. Với tất cả lòng thành kính và tri ân sâu sắc, chúng ta cùng nguyện cầu cho anh linh các đồng chí được siêu thoát nơi cõi vĩnh hằng. Tổ quốc ta, nhân dân ta mãi mãi ghi công. Tên tuổi của các anh hùng liệt sỹ đời đời bất diệt ."
Tại buổi Lễ, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa đã trao tặng 200 triệu đồng cho Huyện ủy, UBND, UBMT Tổ quốc Việt Nam huyện Hoài Ân để cùng nhân dân xây dựng bia tưởng niệm, mộ cho các anh hùng liệt sỹ đã hy sinh vừa được tìm thấy.
Nhân dịp này, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa, Phó Chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân đã đi thăm 5 gia đình liệt sỹ, có công cách mạng tại huyện Hoài Ân.
Danh sách 60 liệt sĩ hy sinh tại đồi Xuân Sơn năm 1966 vừa được làm lễ truy điệu, an táng tại Nghĩa trang liệt sĩ huyện Hoài Ân: 1. Liệt sĩ Đỗ Huy Lệ, sinh năm 1940, xã Quỳnh Sơn, Yên Dũng, Bắc Giang 2. Liệt sĩ Nguyễn Xuân Tương, sinh năm 1941, xã Tân Ước, Thanh Oai, Hà Nội 3. Liệt sĩ Lê Đức Ninh, sinh năm 1932, Thụy Văn, Thụy Anh, Thái Bình 4. Liệt sĩ Nguyễn Văn Xuân sinh năm 1943, Phú Phương, Quốc Oai, Hà Nội 5. Liệt sĩ Nguyễn Đức Toán, sinh năm 1945, Quỳnh Khê, Quỳnh Côi, Thái Bình 6. Liệt sĩ Lương Văn Khâu, sinh năm 1943, Phúc Sen, Quảng Hòa, Cao Bằng 7. Liệt sĩ Dương Thượng Huần, sinh năm 1944, Kim Anh, Kim Thành, Hải Dương 8. Liệt sĩ Nguyễn Văn Chuân, sinh năm 1943, Hạ Mỗ, Đan Phượng, Hà Nội 9. Liệt sĩ Lê Hữu ích, sinh năm 1943, Văn Lung, TX Phú Thọ, Phú Thọ 10. Liệt sĩ Nguyễn Văn Trọng, sinh năm 1943, Ngũ Kiên, Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc 11. Liệt sĩ Phạm Văn Toản, sinh năm 1930, Quảng Thắng, Thanh Hóa, Thanh Hóa 12. Liệt sĩ Đỗ Ngọc Đương, sinh năm 1941, Thiệu Tân, Thiệu Hóa, Thanh Hóa 13. Liệt sĩ Nguyễn Văn Quyền, sinh năm 1944, Quỳnh Lưu, Nho Quan, Ninh Bình 14. Liệt sĩ Trịnh Văn Toản, sinh năm 1946, Đoàn Kết, Thanh Miện, Hải Dương 15. Liệt sỹ Vũ Viết Bân, sinh năm 1945, Hải Thịnh, Hải Hậu, Nam Định 16. Liệt sĩ Hoàng Văn Nhất, sinh năm 1946, Thượng Hòa, Nho Quan, Ninh Bình 17. Liệt sĩ Nguyễn Văn Liên, sinh năm 1940, Ninh Vân, Gia Khánh, Ninh Bình 18. Liệt sĩ Lương Văn Nho, sinh năm 1942, Quỳnh Lưu, Nho Quan, Ninh Bình 19. Liệt sĩ Trương Mạnh Hùng, sinh năm 1945, Văn Phương, Nho Quan, Ninh Bình 20. Liệt sĩ Phạm Văn Điểu, sinh năm 1934, Điện Hồng, Điện Bàn, Quảng Nam 21. Liệt sĩ Ngô Văn Đạo, sinh năm 1940, An Khánh, Hoài Đức, Hà Nội 22. Liệt sĩ Nguyễn Quang Khải, sinh năm 1942, Cam Giá, Thái Nguyên 23. Liệt sĩ Nguyễn Văn Sinh, sinh năm 1945, Quyết Tiến, Phú Bình, Thái Nguyên 24. Liệt sĩ Đặng Văn Thế, sinh năm 1943, An Ấp, Quỳnh Phụ, Thái Bình 25. Liệt sĩ Bùi Văn Quý, sinh năm 1942, Nghĩa Hưng, Gia Lộc, Hải Dương 26. Liệt sĩ Trương Văn Mộc, sinh năm 1937 Nam Tiến, Nam Trực, Nam Định 27. Liệt sĩ Phạm Đức Liên, sinh năm 1939, Nam Hưng, Tiên Lãng, Hải Phòng 28. Liệt sĩ Đỗ Văn Lý, sinh năm 1939, Nam Bình, Ninh Bình, Ninh Bình 29. Liệt sĩ Vũ Văn Lạc, sinh năm 1938, Yên Thắng, Yên Mô, Ninh Bình 30. Liệt sỹ Bùi Đăng Tiên, sinh năm 1939, Gia Sơn, Nho Quan, Ninh Bình 31. Liệt sĩ Lân Văn Khoa, sinh năm 1943, Gia Tân, Gia Viễn, Ninh Bình 32. Liệt sĩ Lê Văn Anh, sinh năm 1939, Ân Hảo, Hoài Ân, Bình Định 33. Liệt sĩ Nguyễn Thế Khóa, sinh năm 1939, Đông Thịnh, Đông Sơn, Thanh Hóa 34. Liệt sĩ Trần Chí Dũng, sinh năm 1940, Ngô Quyền, Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc 35. Liệt sĩ Đinh Thế Thềnh, sinh năm 1945, Ninh Giang, Hoa Lư, Ninh Bình 36. Liệt sỹ Phạm Quang Là, sinh năm 1940, Hoàng Văn Thụ, Thái Nguyên 37. Liệt sĩ Trần Anh Diệp, sinh năm 1940, Anh Khánh, Đại Từ, Thái Nguyên 38. Liệt sĩ Nguyễn Minh Đức, sinh năm 1940, Nga Huy, Phú Bình, Thái Nguyên 39. Liệt sĩ Trần Văn Điệp, sinh năm 1940, An Khánh, Đại Từ, Thái Nguyên 40. Liệt sĩ Nguyễn Ngọc Lưu, sinh năm 1943, Lũng Hòa, Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc 41. Liệt sĩ Nguyễn Tiến Hào, sinh năm 1947, Song Hồ, Thuận Thành, Bắc Ninh 42. Liệt sĩ Nguyễn Tiến Dũng, sinh năm 1942, Minh Hòa, Hưng Hà, Thái Bình 43. Liệt sĩ Phạm Văn Thấu, sinh năm 1943, Nam Hoa, Nam Trực, Nam Định 44. Liệt sĩ Trần Quang Hùng, sinh năm 1941, Sơn Lôi, Bình Xuyên, Vĩnh Phúc 45. Liệt sĩ Nguyễn Xuân Minh, sinh năm 1942, Sơn Đông, Lập Thạch, Vĩnh Phúc 46. Liệt sĩ Đinh Công Bình, sinh năm 1943, Đoan Hạ, Thanh Thủy, Vĩnh Phúc 47. Liệt sĩ Đỗ Trọng Khai, sinh năm 1940, Hùng Xuyên, Đoan Hùng, Phú Thọ 48. Liệt sĩ Ninh Quang Trung, sinh năm 1939, Yên Ninh, Ý Yên, Nam Định 49. Liệt sĩ Nguyễn Huệ, sinh năm 1946, Hoài Châu Bắc, Hoài Nhơn, Bình Định 50. Liệt sĩ Vũ Văn Ty, sinh năm 1944, Gia Sinh, Gia Viễn, Ninh Bình 51. Liệt sĩ Lê Minh An, sinh năm 1938, Phước Hòa, Tuy Phước, Bình Định 52. Liệt sĩ Nguyễn Kim Lịch, sinh năm 1942, Liên Hòa, Lập Thạch, Vĩnh Phúc 53. Liệt sĩ Nguyễn Văn Hoang, sinh năm 1950, Hoài Châu, Hoài Nhơn, Bình Định 54. Liệt sĩ Trương Đình Thản, sinh năm 1939, Phước Thuận, Tuy Phước, Bình Định 55. Liệt sĩ Võ Tài, sinh năm 1948, Trần Phú, Quy Nhơn, Bình Định 56. Liệt sĩ Nguyễn Dệ, sinh năm 1948, Ân Hảo, Hoài Ân, Bình Định 57. Liệt sĩ Khổng Tử Huân, sinh năm 1934, Cát Hanh, Phù Cát, Bình Định 58. Liệt sĩ Hồ Bích, sinh năm 1924, Ân Nghĩa, Hoài Ân, Bình Định 59. Liệt sĩ Đoàn Văn Bình, sinh năm 1937, Ân Hữu, Hoài Ân, Bình Định 60. Liệt sĩ Lê Biên, sinh năm 1942, Ân Hảo Đông, Hoài Ân, Bình Định. |
Theo TTXVN và Báo điện tử Chính phủ
Ý kiến bạn đọc (0)